Vị thuốc hay từ các loài hoa bạn đã biết chưa? Từ xưa đến nay không phải ai cũng biết hoa không chỉ đẹp, quyến rũ mà còn có nhiều tác dụng chữa bệnh.
Dưới đây là một số loài hoa quen thuộc được sử dụng nhiều để làm vị thuốc hay trong y học cổ truyền.
Nhân dịp Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, cùng MayFlower điểm qua những loài hoa có dược tính tốt trong ngành y.
Cúc vạn thọ:
Hoa cúc vạn thọ rất được ưa chuộng và được trồng phổ biến ở Việt Nam dùng để trang trí sân vườn, làm cây cảnh. Phục vụ cúng, lễ và trưng bày trong dịp Tết Nguyên đán. Ngoài ra vạn thọ còn có tác dụng xua đuổi côn trùng có hại, dùng lá để chữa bệnh nấc cụt.
Người phương Đông coi hoa cúc vạn thọ là hình ảnh trường sinh và cuộc sống vĩnh hằng. Theo kinh nghiệm dân gian, hoa cúc vạn thọ, giã nát, trộn với ít đường, hấp chín, nghiền nát, chắt nước uống, có tác dụng chữa kiết lỵ. Nếu phối hợp với húng chanh, hoa đu đủ đực, đường phèn, hấp chín, chắt lấy nước uống có tác dụng chữa ho gà và viêm phế quản.
Hoa đào:
Có vị đắng, tính bình, không độc và vào được ba đường kinh Tâm, Can và Vị. Vị thuốc hay này có công dụng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện. Đặc biệt, được người xưa dùng để chữa các chứng bệnh như thủy thũng, cước khí, đàm ẩm, tích trệ, đại tiểu tiện bất lợi, kinh bế, tâm phúc thống (đau vùng tim), mụn nhọt…
Hoa mai trắng:
Cây hoa mai trắng (bạch mai hoa) gọi là mơ, lạp mai, bạch mai, lạp mộc, hương mai, hoàng lạp, tuyết lý hoa…
Theo y học hiện đại, hoa mai trắng có tác dụng thúc đẩy bài tiết dịch mật, ức chế một số loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao… Theo Đông y, hoa mai trắng vị ngọt hơi đắng, tính ấm, không độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt, viêm đường hô hấp, giúp long đờm.
Hoa hồng:
Có nhiều loại hoa hồng nhưng Đông y thường sử dụng hồng đỏ (mai khôi hoa) và trắng (hồng bạch) để làm thuốc. Hoa hồng là một vị thuốc hay thơm mát, không độc. Để làm thuốc người ta thường hái những đoá hoa mới nở. Khi hái hoa về, bỏ đài, cuống, phơi trong bóng râm cho khô rồi cất vào lọ kín, không phơi nắng để khỏi tan hương vị của hoa.
Theo y học cổ truyền, hoa hồng có vị ngọt, tính ấm, tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng. Hoa hồng đỏ (mai khôi hoa) dùng làm huyết mạch lưu thông, chữa kinh nguyệt không đều, đau ở vùng bụng dưới; vết sưng tấy, đinh nhọt và viêm mủ da, bệnh bạch cầu. Hoa hồng trắng một vị thuốc hay, chứa nhiều vitamin, đường, tinh dầu, dùng chữa ho trẻ em rất công hiệu; ngoài ra còn có tác dụng nhuận tràng.
Hoa đỗ quyên:
Đỗ quyên còn có tên là sơn thạch lựu; ánh sơn hồng, mãn sơn hồng, báo xuân hoa, thanh minh hoa, sơn trà hoa… Hoa đỗ quyên vị chua ngọt, tính ấm, có công dụng hòa huyết, trừ đàm, làm hết ngứa; được dùng để chữa các chứng viêm khí phế quản, nôn ra máu, viêm dạ dày và đặc biệt là bệnh ở phụ nữ…
Nói đến hoa là chúng ta thường hình dung đến giá trị “tô đẹp cho đời” của chúng. Tuy nhiên, không chỉ có thế, trong y học cổ truyền, nhiều loài hoa còn được sử dụng để trị bệnh; phòng bệnh và tăng cường sức khỏe. Sau đây là một số loài hoa có tác dụng trị bệnh.
Hoa hồng
Vị ngọt, tính ôn, có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, giải độc, dùng để chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, ho viêm họng, lở loét miệng; liều dùng 3 – 6g/ngày dưới dạng thuốc sắc. Tinh dầu hoa hồng pha nước tắm có tác dụng an thần. Đây là một vị thuốc hay.
Hoa hòe
Vị đắng trong hoa hòe có từ 6 – 30% rutin, một chất làm bền thành mạch; thường sử dụng để điều trị cao huyết áp, ngăn ngừa tình trạng xuất huyết do vỡ mao mạch; điều trị ho ra máu, tiểu ra máu, chảy máu cam. Liều dùng 5 – 20g mỗi ngày dưới dạng thuốc sắc. Có thể sao khô để dành pha uống như nước trà. Đây là một vị thuốc hay.
Hoa cúc
Có thể sử dụng với dạng nấu nước uống như nước trà; hoặc sắc uống để chữa đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, đau mắt, cao huyết áp, sốt. Mỗi ngày có thể dùng 10 – 16g; dưới dạng thuốc sắc, có thể ngâm rượu uống, hoặc giã nát đắp mụn nhọt.
Hoa cam
Chứa nhiều tinh dầu, có tính kháng khuẩn; nước hoa cam uống để làm êm dịu thần kinh.
Hoa nhài
Thường dùng ướp trà uống, hoặc dùng 2 – 4g hoa khô sắc uống chữa kiết lỵ, chữa mất ngủ.
Hoa sứ
Có tác dụng hạ huyết áp, chữa ho, tiêu đờm, tiêu thũng; liều dùng 6 – 12g mỗi ngày dưới dạng thuốc sắc. Người ta còn dùng nước sắc hoa sứ chữa cảm sốt, kiết lỵ. Hoa sứ còn có tác dụng chữa viêm tắc động mạch, chữa hắc lào.
Hoa bưởi
Tinh dầu hoa bưởi có tác dụng kháng khuẩn và kháng nấm (phế cầu) tụ cầu vàng…
Hoa kim ngân
Có tác dụng tiêu độc, trị ghẻ lở, nhọt độc ngứa, dị ứng, thấp khớp, nước sắc hoa kim ngân; có tác dụng kháng sinh đối với tụ cầu khuẩn, vi khuẩn thương hàn… Liều dùng 10 – 20g mỗi ngày. Đây cũng là một vị thuốc hay.
Hoa mào gà
Sắc uống mỗi ngày từ 8 – 16g, chữa đi tiểu ra máu; hoặc dùng 10g hoa sấy khô, tán nhỏ, chia nhiều lần uống trong ngày. Mỗi lần uống 1 – 2g chữa lỵ ra máu, tiêu ra máu, kinh nguyệt kéo dài.
Hoa dâm bụt
Dùng lá và hoa giã nhỏ trộn với muối đắp lên mụn nhọt; sẽ giúp giảm đau và chóng vỡ mủ.
Tuy nhiên, lưu ý, có những loại hoa có độc; cần phải được bác sĩ chuyên khoa kê toa hoặc hướng dẫn sử dụng./.
Pingback: Sự tích hoa nhài bạn có biết? Loài hoa mang mùi hương thơm ngày
Pingback: Hoa đẹp nhất thế giới - Cánh đồng bất tận bạn nên đến thử một lần
Pingback: Cánh đồng hoa đẹp hút hồn ở Hokkaido mà bạn không nên bỏ lỡ